Bần
vốn chỉ là người dân “chân đất mắt toét”, nhờ
xã hội phát triển mà có được cuộc sống khấm khá
hơn, tiện nghi hơn, cũng vì thế mới có thể hoà mình
vào thế giới văn minh, tìm kiếm thông tin và được chia
sẻ những gì mình muốn trong môi trường thông tin đa
dạng ấy.
Nói
đến mấy chữ “khấm khá” hay “tiện nghi” thì thú
thực là chỉ để so với những người đồng tầng lớp
với mình thôi và cũng chỉ ở phạm vi “sau luỹ tre
làng”, chứ qua những gì tìm hiểu được trên mạng thì
Bần biết mức sống của Bần, điều kiện của Bần
cũng chỉ là của tầng lớp thấp trong xã hội Việt Nam
ngày nay, huống chi nói đến các nước có nền kinh tế
phát triển khác.
Có
người từng hỏi: Bần có muốn thay
đổi không?
Bần
hiểu ý nghĩa câu hỏi là muốn biết nguyện vọng của
Bần về việc đổi đời, nguyện vọng về một cuộc
sống khấm khá hơn, tiện nghi hơn, tốt đẹp hơn…
Câu
hỏi trên vốn dĩ đã chứa câu trả lời trong đó. Là
con người bằng xương, bằng thịt, như bao người khác
Bần sao lại không muốn được phát triển? sao lại không
muốn cuộc sống của mình, gia đình mình tốt đẹp hơn?
Bởi thế Bần đã không nhất thiết phải
trả lời câu hỏi đó.
Là
người dân của một nước có lịch sử bị đô hộ bởi
ngoại bang hàng ngàn năm, mới thoát khỏi ách thống trị
của hai đế quốc thực dân là Pháp và Mỹ chưa tròn 40
năm… thì phần nào Bần
đồng cảm và thấu hiểu được nỗi khổ của người
dân mất nước, người dân nô lệ như thế nào, từ đó
nỗi khát khao về cuộc sống hoà bình, không chiến tranh,
cuộc sống ổn định và phát triển bền vững đang và
sẽ vô cùng quan trọng và ý nghĩa đối với không chỉ
riêng Bần mà với hầu hết người dân lao động như
Bần.
Đến
với thế giới ảo qua hệ thống mạng internet, Bần đã
không dưới một lần hoang mang, lo ngại bởi những thông
tin nhận định về tình hình đất nước. Người thì bảo
đó là xu thế dân chủ tiến bộ, người thì cho là ảo
tưởng chủ quan duy ý chí. Người cho rằng đó là sự
phát triển tất yếu, người lại bảo nhân tố cản trở
sự tiến bộ… hàng loạt các vấn đề được đặt ra
như đa nguyên, đa đảng, đa thành phần kinh tế, xã hội
dân sự… đều được những người viết ra tô điểm
rất đẹp, rất hấp dẫn khiến Bần đây
như lạc chốn mê cung… thực chất xã
hội Việt Nam sẽ ra sao, nên đi đâu về đâu? Với tình
cảm yêu chuộng hoà bình, nâng niu quý trọng những gì
mình đang có, Bần đã rất lo lắng khi những điều tốt
đẹp hiện hữu hiện nay bỗng chốc tan thành mây, thành
khói chỉ bởi sự đường đột nào đó. Phát triển theo
tiến bộ của nhân loại là mong muốn không chỉ riêng
ai, nhưng phát triển trong ổn định và phát triển trong
mạo hiểm thì nên chọn con đường nào là phù hợp nhất?
Bởi
những trăn trở ấy, từ viễn kiến hạn hẹp của mình,
lần lượt bộc bạch cùng độc giả qua từng entry sau
đây:
Entry
1. Đôi điều về nền tảng lý luận và thần tượng
Khi
đọc những thông tin cho rằng Việt Nam vì quá tôn sùng
chủ nghĩa Marx – Lê mà không chịu đổi mới, để rồi
sau hơn 30 năm giải phóng mà nền kinh tế, xã hội phát
triển trì trệ, không theo kịp các nước trên thế giới
cũng như một số nước trong khu vực. Lần theo phân tích
trong các bài viết đó thì Bần thấy cũng có lý. Rằng
thì là: Marx là nhà khoa học vĩ đại thế kỷ thứ 19,
thời mà trình độ khoa học còn rất lạc hậu thô sơ,
mặc dù Marx rất thiên tài trong dự báo, nhưng làm sao có
thể hình dung nổi kỷ nguyên của sự bủng nổ về công
nghệ thông tin…cũng có lý khi Marx là người Đức, viết
những tác phẩm về chủ nghĩa Marx tại Đức thì khó có
thể hiểu được những đặc trưng của Việt Nam nên
chắc chắn sẽ có những điểm không phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam… nhưng tìm hiểu
thêm thì cũng không khỏi thắc mắc là tại sao các nước
Tư Bản mà đứng đầu là Mỹ còn phải lập ra hẳn
những Trung tâm nghiên
cứu Marx để nghiên cứu vận dụng những điều mà Marx
viết trong cuốn Tư
Bản Luận, để từ đó điều
chỉnh cách thức vận hành nền kinh tế của họ nhằm
tránh những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình vận hành
sản xuất, phân phối sản phẩm và thu vén lợi nhuận?
Và thực ra trong học thuyết Marx, Marx chỉ đưa ra những
lập luận về nguyên lý của sự phát triển dựa trên
những đúc rút, tổng hợp từ sự thay đổi phát triển
của xã hội đã và đang xảy ra (thời Marx). Cái vĩ đại
của Marx là khả năng phân tích tổng hợp theo logic một
cách tài tình, xem xét thấu đáo về các sự vật, các
vấn đề, mặt của vấn đề trong mối tương quan chung,
trong bối cảnh chung của sự vật, sự việc ấy… để
rồi đưa ra những nhận định mang tính dự báo. Thực
ra, đến nay người ta vẫn dùng những lý lẽ kiểu “cha
cụt chân thì đẻ ra con cũng cụt chân”
để suy diễn một cách hết sức chủ quan về những luận
điểm mà Marx nêu ra, ít ai hiểu thật đúng về Marx. Ngay
cả TS Hà Sỹ Phu cũng đã từng bàn về học thuyết Marx
với chủ ý phê phán sự vận dụng khiên cưỡng của
ĐCSVN vào bối cảnh xã hội VN, những tưởng đã là tinh
tuý của những phản biện về chủ nghĩa Marx, thế nhưng
chẳng lâu sau đó, Lữ Phương một người chẳng học
hàm, từng được xem là thành phần bất đồng chính
kiến, nhưng đã từng
dành nhiều thời gian nghiên cứu về Marx và về Hồ Chí
Minh... đã chỉ vỏn vẹn 03 trang giấy A4 khẳng khái phân
tích, chỉ ra những nhầm lẫn tai hại và đi đến kết
luận “Hà Sỹ Phu chưa hiểu về Marx”
mà TS Hà Sỹ Phu không tìm được một lời để phản
biện lại. Ở đây cũng đã chứng minh một điều là
trong học thuật, trong nghiên cứu khoa học thì chỉ có lý
luận khoa học mới là chân lý, không có chỗ cho phe cánh
hay sự cả nể. Lữ Phương đã rất
thuyết phục trong phản bác lại Hà Sỹ Phu, nhưng không
phải tất cả những điều mà Lữ Phương nêu ra đều
đúng.
Vận
dụng chủ nghĩa Marx là vận dụng những nguyên lý được
nghiên cứu rút ra một cách khoa học để làm nền tảng
cho các nhận định về sự phát triển, tỉ dụ nguyên lý
về sự phát triển là sự vận động
theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự
vật… là những lập luận mang tính
triết lý về những quy luật được đúc kết thành lý
luận, lý luận này giúp chúng ta nhìn nhận về sự vật
một cách khách quan hơn, biện chứng hơn, chứ không phải
là một sự chỉ vẽ phải làm theo. Bởi thế, khi vận
dụng người ta còn dựa trên những yếu tố mang tính đặc
thù để lược đi hoặc thêm vào những đặc tính ấy
những yếu tố khách quan cho phù hợp và như thế những
lý luận của Marx chỉ mang tính nền tảng chứ không là
đường lối, chủ trương cứng nhắc, nên dù Marx có sống
ở thế kỷ nào, viết ở đâu không phải là lý do để
phủ nhận, nếu phủ nhận được thì chỉ khi chỉ ra
được rằng những lập luận ấy không còn là quy luật
chung cho tất cả sự vật hiện tượng đã và đang diễn
ra trong giai đoạn hiện nay.
Còn
về thần tượng Hồ Chí Minh, không ít người bỏ công
sức để tìm kiếm, soi mói về đời tư của vị lãnh tụ
này, điều này cũng dễ hiểu, khi người ta muốn công
kích về một thể chế thì điều đầu tiên là họ nhắm
vào công kích những người lãnh đạo. Thể chế nước
CHXHCNVN do Đảng CSVN lãnh đạo, trong khi đó Hồ Chí Minh
là người sáng lập, lãnh đạo đảng CSVN và là người
được đại đa số người dân Việt Nam tin yêu. Như thế,
hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh sẽ giúp họ đạt được
mục đích cao nhất là xoá bỏ chế độ CS ở Việt Nam.
Bỏ
qua những dung tục mà những người có thù hằn với chế
độ dựng ra để bêu rếu, thì những luận điệu như Hồ
Chí Minh có vợ, Hồ Chí Minh tự viết chuyện ca ngợi
mình, Hồ Chí Minh chỉ là người gặp may trong quá trình
đi tìm đường cứu nước, tư tưởng Hồ Chí Minh là tư
tưởng cóp nhặt…cũng một thời làm cho dư luận bán
tín, bán nghi… nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu khi
mà những tuyên truyền ấy chỉ chứa đựng một phần sự
thật. Cũng như cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy
Đức cũng đã thành công khi làm dậy sóng dư luận trong
một khoảng thời gian nhất định, rồi sau đó nó từ từ
rơi vào quên lãng, đó còn nhờ có sự may mắn vì khi vừa
tung ra thì có được những lời có cánh của một vài
trí thức có tên tuổi lăng xê, nếu không tốc độ quên
lãng sẽ còn nhanh hơn nữa.
Trở
lại vấn đề hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh, thần
tượng là do chính người dân thương yêu mà khắc ghi
trong lòng, bởi thế không ai bảo ai, khắp đất nước
Việt Nam này chúng ta không khó để tìm thấy những bàn
thờ có ảnh Hồ Chí Minh được trân trọng đặt lên dù
không phải là người thân hay thánh nhân. Ngay
trong đạo Cao Đài thì Hồ Chí Minh cũng được xem
như một vị thánh được thờ phụng.
Hay trong không ít gia đình theo đạo Công giáo thuần tuý,
tuy ảnh Hồ Chí Minh không được thờ như
tượng Chúa, nhưng vẫn được những gia
đình này treo ở một số vị trí trang trọng trong nhà.
Lữ
Phương từng bỏ công viết về Hồ Chí Minh qua cuốn sách
“Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” cũng không
ngoài mục đích ấy, mặc dù ông ta đã dày công sưu tầm
những cứ liệu để chứng minh về đời hoạt động của
Hồ Chí Minh rằng Hồ Chí Minh cũng chỉ là một người
bình thường, gặp may…, khác hoàn toàn những gì mà các
cơ quan truyền thông trong nước tuyên truyền bấy lâu. Cá
nhân Bần khi đọc cuốn sách của Lữ Phương, Bần thầm
cảm ơn Lữ Phương rằng: ông ta đã tưởng đưa ra những
điều gọi là đời thường của một con người bình
thường trong Hồ Chí Minh để lập luận theo mục đích
“đánh đổ thần tượng”, nhưng khi đón nhận thông
tin ấy Bần càng thần tượng Hồ Chí Minh hơn, Bần chỉ
mong rằng Hồ Chí Minh chỉ cần như thế đã là thánh
rồi, một vị thánh rất đời thường, rất gần gũi với
nhân dân, bởi xuất thân của Hồ Chí Minh vốn là thế,
không phải từ một phép màu của đấng siêu nhiên nào.
Lâu
nay chúng ta vẫn tiếp nhận thông tin rất hay về Chủ
tịch Hồ Chí Minh từ nguồn thông tin chính thống của
các cơ quan thông tấn, báo chí. Trước tiên cần nhìn
nhận việc tổ chức tuyên truyền này là bình thường và
cần thiết cho việc củng cố và xây dựng chế độ xã
hội, chẳng lý nào cơ quan truyền thông của chế độ
lại đi tuyên truyền ngược, bới móc đời tư của lãnh
tụ mình cả. Chắc chắn bất cứ chế độ chính trị
nào cũng cần và phải làm thế. Tuy nhiên, Bần muốn nhìn
nhận thêm ở một khía cạnh mở hơn là: Không phải
chúng ta cứ phong thánh cho ai đó, cường điệu vấn đề
gì đó thì người đó sẽ thành thánh, sự việc đó trở
thành đỉnh cao…mà nhiều khi chính cái dung dị, cái mộc
mạc đời thường lại làm tôn vinh thêm giá trị của
nó. Nếu có ai đó mang suy nghĩ lấy việc Hồ Chí Minh
không lập gia đình làm thần tượng thì Bần hoàn toàn
không đồng tình. Chuyện lập gia đình của một cá nhân
là thuận theo lẽ tự nhiên và từ điều kiện bản thân
người đó. Điều kiện bản thân ở đây không chỉ
riêng vật chất mà còn bao hàm cả góc độ tình cảm,
mối quan hệ xã hội, bối cảnh, quỹ thời gian của
người đó…Việc Hồ Chí Minh có người yêu, có vợ hay
không chỉ là một chuyện bình thường, chẳng nên đề
cao, cũng chẳng nên xoi mói để hạ thấp phẩm giá họ.
Một con người thường thì không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, vượt qua những khiếm khuyết để làm
được những điều có ý nghĩa cho xã hội… mới cần
được quan tâm đánh giá cho đúng. Chúng ta cứ mở lòng
khi nhìn nhận những điều tạm gọi là “khiếm khuyết”
của Hồ Chí Minh nếu có (như: có vợ, có người yêu là
người Trung Quốc, hút thuốc,…) để một lần nữa nhìn
nhận Hồ Chí Minh là một người dân rất mực bình
thường như bao người dân khác, sau đó hãy đánh giá
những gì mà Hồ Chí Minh đã làm được cho đất nước,
cho dân tộc này… thì ta lại càng thấy ở Hồ Chí Minh
sự cao đẹp gấp ngàn lần những tuyên truyền cường
điệu sai lệch, sáo rỗng.
Còn
những người phê phán những “khiếm khuyết” của Hồ
Chí Minh liệu họ có “trong sạch” hơn không? tư
cách của họ thế nào? và họ đã làm
được gì cho đất nước này, dân tộc này? Bạn hãy thử
nhìn lại ông Lữ Phương hay TS Hà Sỹ Phu và so sánh!
(Còn
tiếp)
mong sớm được đọc phần tiếp theo. Cảm ơn nhà Bần!
Trả lờiXóa